2.
Lời cầu nguyện của người có đức tin (Nê-hê-mi 1:4-9)
4 Khi nghe các lời ấy, bèn ngồi mà khóc, cư tang mấy ngày;
tôi cữ ăn và cầu nguyện Đức Chúa của các từng trời, mà rằng: 5 Ôi! Giê-hô-va
Đức Chúa của các từng trời, tức Đức Chúa Trời cực đại và đáng kinh, hay giữ lời
giao ước và lòng nhân từ cùng kẻ nào kính mến Ngài và vâng giữ các điều răn của
Ngài! 6
Tôi xin mắt Chúa hãy đoái đến và lỗ tai Chúa lắng nghe lời cầu nguyện của kẻ
đầy tớ Chúa, mà tôi hiện lúc này hằng ngày và đêm cầu nguyện vì dân Y-sơ-ra-ên,
là các tôi tớ Chúa, ở tại trước mặt Chúa và xưng những tội của dân Y-sơ-ra-ên
mà chúng tôi đã phạm với Ngài. Và lại tôi và nhà của tổ phụ tôi cũng có phạm
tội. 7
Chúng tôi có làm rất ác tệ nghịch cùng Chúa, không vâng giữ điều răn giới mạng
và luật lệ của Chúa đã phán dạy Môi-se, là kẻ tôi tớ Chúa. 8 Xin Chúa hãy nhớ
lại lời Chúa đã phán dạy Môi-se, kẻ tôi tớ Chúa, rằng: Nếu các ngươi phạm tội,
ta sẽ tan rải các ngươi giữa các dân tộc; 9 còn nếu các ngươi trở lại cùng ta, gìn giữ làm theo
các điều răn của ta, dầu khi kẻ bị tan lạc của các ngươi ở cuối tận trời, ta
cũng sẽ từ đó chiêu tập chúng nó về, và dẫn chúng nó đến nơi ta đã chọn đặng
cho danh ta ngự tại đó.
Trong câu 4, ông Nê-hê-mi khóc, cư tang, cữ ăn và cầu
nguyện. Ông cầu nguyện khóc lóc, buồn rầu nhưng không mất hy vọng; ông cầu
nguyện đối diện với sự thật đau lòng nhưng không tuyệt vọng. Nhờ đâu? Nhờ ông
cầu nguyện với đức tin.
Người cầu nguyện tin nơi sự cao cả vĩ đại của Chúa. Ông Nê-hê-mi cầu
nguyện với “Giê-hô-va Đức Chúa của các
từng trời, tức Đức Chúa Trời cực đại và đáng kinh” (câu 5). Ông biết là ông đang cầu nguyện với ai.
Người cầu nguyện tin rằng Chúa luôn luôn cai trị với quyền năng trên các dân tộc cũng như cá nhân, trên việc nhỏ cũng như việc lớn... Trong phần đầu của bài cầu nguyện ông Nê-hê-mi nói về
‘kẻ nào’, con người nào (câu 5), rồi đến ‘kẻ tôi tớ Chúa’, rồi đến dân của Chúa
(câu 6); rồi đến các dân tộc, đến cuối tận trời (câu 9). Người cầu nguyện tin
rằng Chúa là Đấng quyền năng, cai trị từ việc nhỏ của một cá nhân (chính người
cầu nguyện hoặc bất cứ kẻ nào) đến việc to tát liên quan đến tuyển dân của Ngài
(những người phạm tội đang bị lưu đày) cũng như việc to tát hơn nữa của toàn
thể các dân tộc (nơi tuyển dân của Chúa đang bị tản lạc).
Người cầu nguyện tin nơi tình yêu thương và lòng thương
xót của Chúa. Phải tin rằng
Chúa quyền năng, cai trị với tình
yêu thương, lòng thương xót. Phải cầu nguyện với đức tin nơi tình yêu thương và lòng
thương xót của Chúa. Chúa là Đấng ‘nhân từ’, là Đấng ‘đoái đến’ và ‘lắng nghe’
lời cầu nguyện của đầy tớ Chúa (câu 5-6).
Người cầu nguyện tin nơi sự thành tín của Chúa. Chúa là Đấng ‘giữ lời giao ước’ đối với những
người kính mến Ngài và vâng giữ các điều răn của Ngài (câu 5). Ông Nê-hê-mi tin
Chúa là Đấng luôn giữ đúng lời hứa. Nếu
ai không tuân hành luật lệ của Ngài sẽ bị Ngài trừng phạt. Ngược lại ai tuân
hành các điều răn thì Ngài sẽ thực hiện những lời đã hứa dù hoàn cảnh có ra sao
đi nữa.
Người cầu nguyện biết lời Chúa và tin lời của Ngài. Ông Nê-hê-mi cầu nguyện trên cơ sở hiểu biế lời Chúa
và tin lời của Ngài. Ông biết vì sao dân Chúa lâm vào tình cảnh như thế. Ông
cũng biết và tin rằng khi tuyển dân ăn năn quay trở lại cùng Chúa, tuân thủ
điều răn của Chúa thì Ngài sẽ tập họp họ lại và dẫn họ trở về. Người cầu nguyện
cần nhận biết lời Chúa, nắm vững những nguyên tắc trong lời Chúa và tin lời của
Ngài.
Người cầu nguyện tin Chúa ở cùng. Căn cứ vào lời
Chúa, ông Nê-hê-mi tin rằng Chúa ở cùng ông cho ông được may mắn trước mặt vua Ạt-ta-xét-xe (câu 11). Không phải ông chỉ tin Chúa ở cùng trong khi cầu nguyện
riêng ở nhà, nhưng ông tin Chúa cũng ở cùng khi ông đứng trước mặt vua. Khi vua
hỏi: “Ngươi cầu xin cái gì” Ông
Nê-hê-mi cầu nguyện thầm cùng Chúa của các từng trời (2:4) vì ông tin Chúa đang
ở cùng ông.
Khi bạn cầu nguyện, bạn tin Chúa như thế nào? Bạn có
niềm tin như ông Nê-hê-mi tin không?
(Còn tiếp)
XuânThu (XuânThu Sách Cơ Đốc)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét