Lương nhân tôi thuộc về
tôi,
Và tôi thuộc về người;
Người chăn bầy mình giữa
đám hoa huệ.
(Nhã Ca 2:16)
Hỡi người xinh đẹp hơn hết
trong các người nữ,
Lương nhân của chị đi đâu?
Lương nhân của chị xây về
hướng nào?
Chúng tôi sẽ cùng đi tìm
người với chị.
Lương nhân tôi đi xuống
vườn người,
Nơi vuông đất hương hoa,
Đặng chăn trong vườn và bẻ
hoa huệ,
Tôi thuộc về lương nhân tôi
Và lương nhân tôi thuộc về
tôi;
Người chăn bầy mình giữa
đám hoa huệ.
(Nhã Ca 6:1-3)
Hôn
lễ của người chăn chiên không phải chỉ là cuộc hôn nhân thường tình như mọi
người trong xã hội: trai lớn lên cưới vợ, gái lớn lên lấy chồng. Đây là cuộc
hôn nhân có ý nghĩa đặc biệt và vô cùng quan trọng không phải vì là cuộc hôn
nhân giữa một thanh niên Cơ Đốc với một thiếu nữ Cơ Đốc. Đối với người chăn
thuộc linh, hôn nhân có ý nghĩa và rất quan trọng vì là hôn nhân của người hầu
việc Đức Chúa Trời, hôn nhân của người chăn thuộc linh. Người chăn thuộc linh
yêu thương chăm sóc bầy chiên của Đức Chúa Trời, giờ đây lại gánh thêm trách
nhiệm yêu thương chăm sóc gia đình mới của mình. Đối với người nữ, việc yêu
thương và chấp nhận trở thành vợ của người chăn thuộc linh có nghĩa là cô trở
thành vợ của người hầu việc Đức Chúa Trời. Vừa là đặc ân nhưng cũng kèm theo
trách nhiệm lớn lao. Đặc ân vì trong tương lai người ta sẽ gọi cô là bà Mục sư,
đây là vinh dự. Bên cạnh việc cô phải chăm sóc gia đình của mình, cô còn có
trách nhiệm giúp chồng chăm sóc tín hữu nữa.
Tình
yêu - hôn nhân và công tác chăn bầy của người chăn thuộc linh có gì khác với
tình yêu - hôn nhân và công việc của mọi người khác không?
(Còn
tiếp)
XuânThu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét